Lịch sử hoạt động LTV_A-7_Corsair_II

Chiếc A-7D-10-CV số hiệu 71-0309 thuộc Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 388, Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Korat, Thái Lan, 1973Chiếc A-7D Corsair II lượn sang trái trên bầu trời phía trên Căn cứ Không quân Nellis, Nevada

Phi công lái những chiếc A-7 đầu tiên khen ngợi chiếc máy bay vì tính cách chung lái dễ dàng (ngoại trừ kém ổn định khi hạ cánh với gió ngang) và tầm nhìn phía trước xuất sắc nhưng cho là động cơ còn thiếu lực đẩy. Vấn đề được sửa đổi với phiên bản A-7B và triệt để hơn ở các phiên bản A-7D/E. Động cơ turbo quạt ép cung cấp sự cải thiện đáng kể về hiệu quả nhiên liệu so sánh với kiểu động cơ turbo phản lực trước đây, chiếc A-7D được cho là có mức tiêu thụ nhiên liệu chỉ bằng một-phần-sáu so với chiếc F-100 Super Sabre với lực đẩy tương đương. Một chiếc A-7D mang 12 quả bom 227 kg (500 lb) ở vận tốc 775 km/h (480 mph) trên độ cao 10.000 m (33.000 ft) chỉ tiêu thụ 1.500 kg (3.350 lb) nhiên liệu mỗi giờ. Máy tính kiểm soát vũ khí tích hợp cho phép ném bom với độ chính xác 20 m (60 ft) bất chấp kinh nghiệm của phi công. Hệ thống dẫn đường doppler chỉ cần 2,5 phút trên mặt đất để đồng bộ một phần, một cải tiến rất lớn so với 13 phút cần cho chiếc F-4 Phantom II. Thêm vào đó, chiếc A-7 chỉ cần 11,5 giờ công bảo trì cho mỗi phi vụ, cho phép quay vòng máy bay nhanh và có nhiều máy bay sẵn sàng chiến đấu hơn.

Đông Nam Á

Tại Việt Nam, không khí nóng và ẩm lấy mất lực đẩy của ngay cả các phiên bản A-7D và A-7E được nâng cấp. Đường băng cất cánh kéo dài và máy bay trang bị vũ khí đầy đủ phải gắng sức mới đặt được tốc độ 800 km/h. Phi công châm biếm rằng chiếc Corsair "không thật nhanh, nhưng chắc chắn là chậm".[1] Để phục vụ cho việc Huấn luyện Không chiến Khác biệt, và cho Đội Thao diễn Hàng không Blue Angels, Hải quân đã chọn kiểu máy bay A-4 Skyhawk nhanh nhẹn hơn như là nền tảng cơ động cân âm, vì một số người cho rằng chiếc A-7 không thích đáng cho không chiến. Thủy quân Lục chiến cũng chuyển sang sử dụng Corsair II, họ đã chọn nó thay vì kiểu máy bay V/STOL (máy bay cất cánh hạ cánh thẳng đứng/trên đường băng ngắn) AV-8 Harrier như là kiểu máy bay cường kích hạng nhẹ thay thế cho những chiếc A-4F/M Skyhawk của họ.

Những chiếc A-7A Hải quân đầu tiên được bố trí đến Việt Nam vào năm 1967 cùng Phi đoàn VFA-147 Argonauts trên chiếc tàu sân bay USS Ranger. Chiếc máy bay thực hiện phi vụ chiến đấu đầu tiên vào ngày 4 tháng 12 năm 1967. Trong những tháng sau đó, VA-147 bay khoảng 1.400 phi vụ và chỉ mất một máy bay. Đến tháng 1 năm 1968, tàu sân bay USS Ranger tham gia vào sự kiện chung quanh việc tàu khu trục USS Pueblo bị phía Bắc Triều Tiên bắt giữ trong vùng Biển Nhật Bản. Phiên bản cải tiến A-7B của Hải quân đến Việt Nam vào đầu năm 1969, và phiên bản cuối cùng A-7E tiếp nối vào năm 1971.

Các chiếc Corsair trên tàu sân bay USS Oriskany.

Hải quân Hoa Kỳ thiệt hại chiếc A-7 đầu tiên vào ngày 22 tháng 12 năm 1967, chưa đầy ba tuần sau khi tham gia hoạt động chiến đấu. Chiếc Corsair từ Phi đội VA-147 của tàu sân bay USS Ranger do Thiếu tá James M. Hickerson điều khiển đang tấn công một vị trí pháo phòng không, khi một tên lửa SAM nổ bên dưới máy bay của ông, động cơ và hệ thống thủy lực bị hỏng và ông phải phóng ra. Thiếu tá Hickerson trở thành tù binh chiến tranh và được phóng thích ngày 14 tháng 3 năm 1973. Thiệt hại cuối cùng của A-7 Corsair Hải quân trong cuộc chiến là vào ngày 29 tháng 1 năm 1973, khi Trung tá T.R. Wilkinson thuộc Phi đội VA-147 cất cánh từ tàu sân bay USS Constellation bị mất tích trong một phi vụ huấn luyện; ông được ghi nhận là đã hy sinh khi bay. Hai mươi tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ đã từng luân phiên hoạt động tại vùng biển Đông Nam Á để thực hiện các phi vụ không kích từ năm 1967 đến năm 1973. Mười trong số những tàu sân bay đó bị thiệt hại những chiếc A-7 Corsair II: USS Ticonderoga mất ba, USS Constellation mất 15, USS Ranger mất 11, USS Coral Sea mất 13, USS Midway mất hai, USS Oriskany mất tám, USS Saratoga mất tám, USS Kitty Hawk mất 13, USS Enterprise mất ba, và chiếc USS America mất 16. Có 15 máy bay trong số đó bị bắn rơi do tên lửa đất-đối-không (SAM).

A-7D của Không quân Hoa Kỳ cũng được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam và Campuchia cùng các Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 354 và 388 bay từ Căn cứ Korat của Không quân Hoàng gia Thái Lan. A-7 của Phi đoàn 354 bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm 1972 và tấn công các mục tiêu cách xa căn cứ đến 800 km, sử dụng rộng rãi phương pháp tiếp nhiên liệu trên không. Chiếc A-7D được nhanh chóng giao cho vai trò trong các "phi vụ Sandy" cung cấp sự yểm trợ từ trên không để giải cứu các phi công bị bắn rơi. Nhận lãnh vai trò này từ những chiếc A-1 Skyraider (nên mới có cái tên "Sandy"), tốc độ cao của chiếc A-7 phần nào bất lợi cho việc hộ tống những máy bay trực thăng nhưng khả năng hoạt động kéo dài và sức bền chịu đựng cao của chiếc máy bay rất có giá trị và nó hoạt động một cách đáng ngưỡng mộ. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1972, Thiếu tá Colin A. Clarke đã lãnh đạo một phi vụ thành công gần Thanh Hóa để giải cứu một đội bay F-105 Wild Weasel bị bắn rơi. Phi vụ kéo dài tổng cộng 8,8 giờ trong đó Clarke và đồng đội của ông trúng phải nhiều phát đạn từ súng phòng không 12,7 mm (0,51 inch). Vì những hành động phối hợp trong phi vụ giải cứu, Clarke đã được tặng thưởng Huân chương Chữ thập bay, huân chương cao quý thứ hai của Không quân.

Những chiếc A-7D Không quân Hoa Kỳ đã thực hiện tổng cộng 12.928 phi vụ chiến đấu trong cuộc chiến, và chỉ thiệt hại sáu chiếc, tổn thất thấp nhất trong số các máy bay tiêm kích Mỹ tại chiến trường này. Chiếc máy bay này cũng chỉ đứng thứ hai sau chiếc B-52 Stratofortress về số lượng bom được ném xuống Hà Nội, và nó ném nhiều bom hơn cả trong mỗi phi vụ với độ chính xác cao hơn so với mọi máy bay tấn công Mỹ nào khác.

Chiếc A-7 Corsair đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ bị mất do Đại úy Anthony C. Shine thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 353 điều khiển. Vào ngày 02 tháng 12 năm 1972 Shine thực hiện một phi vụ tìm kiếm và giải cứu (SAR) khi ông biến mất trong một đám mây thấp để nhận diệm một mục tiêu. Cuộc tìm kiếm kéo dài ba ngày không tìm thấy Đại úy Shine hay chiếc Corsair của ông. Vào năm 1993, con gái của Đại úy Anthony Shine quyết định tìm di tích của cha mình và đã đến Việt Nam, đích thân tìm kiếm tại nơi xảy ra tai nạn. Di hài của Đại úy Anthony Shine được đưa về Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1995, được chính thức nhận diện và được chôn cất với đầy đủ nghi thức quân đội tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington vào năm 1996.

Vào ngày 24 tháng 12 năm 1972 một chiếc A-7 thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 353 đang bổ nhào để tấn công một vị trí pháo đối phương trong khi một chiếc O-1 Bird Dog vốn đang chỉ điểm cuốc tấn công đang ngóc lên ngay vào đường bay của chiếc Corsair; chiếc Corsair cắt qua chiếc O-1, làm nó rơi xoay tít xuống đất làm phi công tử nạn. Đại úy Riess phải phóng ra từ chiếc máy bay bị hỏng nặng và bị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt làm tù binh. Ông được phóng thích như là từ binh chiến tranh vào ngày 28 tháng 3 năm 1973.

Vào ngày 11 tháng 1 năm 1973, một chiếc A-7 thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 355 đang thực hiện một phi vụ hộ tống thì động cơ bị hỏng. Phi công phải phóng ra và sống sót. Vào ngày 17 tháng 2 năm 1973 Thiếu tá Gallagher thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 354 đang lái chiếc A-7 trong một phi vụ hỗ trợ gần mặt đất thì trúng phải hỏa lực pháo phòng không ở độ cao 15.000 ft, ông đã phóng ra và sống sót.

Vào ngày 4 tháng 5 năm 1973, Trung úy T.L. Dickens thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 3 lái chiếc Corsair của ông tấn công một tàu sông đối phương thì trúng phải hỏa lực mặt đất đối phương. Ông đã phóng ra và sống sót.

Vào ngày 25 tháng 5 năm 1973, Đại úy Jeremiah Costello thuộc Phi đội 354 đang thực hiện một phi vụ hỗ trợ gần mặt đất thì trúng phải hỏa lực pháo phòng không đối phương. Thi thể của ông được một máy bay trực thăng H-53 tìm thấy; chiếc Corsair của Đại úy Costello là tổn thất A-7 cuối cùng trong Chiến tranh Việt Nam.

Những chiếc A-7D từ sân bay Korat thực hiện các phi vụ chiến đấu tại Việt Nam cho đến giữa tháng 1 năm 1973, tại Lào đến ngày 22 tháng 2 năm 1973, và tại Cambodia cho đến ngày 15 tháng 8 năm 1973. Trong quá trình chiến tranh tại Đông Nam Á, A-7 Corsair của Hải quân Hoa Kỳ được sơn màu xám/trắng; trong khi A-7 của Không quân thông thường được sơn màu ngụy trang toàn bộ. Hải quân Hoa Kỳ từng thử nghiệm sơn màu kiểu ngụy trang trên một số máy bay của họ trong chiến tranh, nhưng khi hạ cánh đội mặt đất nhận thấy nhiệm vụ của họ trở nên phức tạp do điều kiện khí hậu thay đổi trên một chiếc tàu đang di chuyển, cũng như đồng phục được mã màu theo nhiệm vụ của đội mặt đất; làm gia tăng những nguy cơ cho một sàn đáp chật chội. Họ đã quyết định giữ nguyên màu sơn dễ nhìn thấy của những chiếc máy bay hải quân vì lý do an toàn.

Vào ngày 15 tháng 5 năm 1975, máy bay A-7D của Phi đoàn 388/Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 3 từ sân bay Korat đã hỗ trợ từ trên không cho vụ xung đột được xem là trận đánh cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, vụ giải cứu chiếc SS Mayagüez sau khi nó bị cướp bởi lực lượng cộng sản Cambodia.

Grenada

Các phi đội Corsair II VA-15 và VA-87, từ tàu sân bay USS Independence, đã thực hiện các phi vụ hỗ trợ gần mặt đất tại Grenada vào tháng 10 năm 1983.

Liban

Những chiếc máy bay A-7 Hải quân cũng thực hiện các phi vụ hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng đa quốc gia tại Liban năm 1983. Cùng với một chiếc A-6 Intruder, đã có một chiếc A-7 bị bắn rơi bởi tên lửa đất-đối-không (SAM) của Syria vào ngày 4 tháng 12 năm 1983.

Libya

Vào ngày 24 tháng 3 năm 1986, trong sự kiện xung đột tại vịnh Sidra cùng Libya, lực lượng phòng không Libya đã bắn tên lửa đất-đối-không SA-5 vào hai chiếc F-14 thuộc Phi đội VF-102 từ tàu sân bay USS America đang tuần tra. Ngày hôm sau, một chiếc máy bay A-7 Hải quân đã tháp tùng theo những chiếc máy bay tiêm kích, và đã phản ứng lại việc phát xạ sóng radar SA-5 bằng cách phóng tên lửa chống radar AGM-88A HARM được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu và đã tiêu diệt vị trí radar Libya.

Vào ngày tháng 4 năm 1986, những chiếc A-7E Đệ Lục Hạm Đội thuộc các phi đội VA-72 và VA-46 trên tàu sân bay USS America cũng tham gia Chiến dịch El Dorado Canyon, cuộc tấn công trả đũa Libya sử dụng các tên lửa chống bức xạ HARM và Shrike.

Chiến dịch Earnest Will/Chiến dịch Praying Mantis

Trong quá trình cuộc Chiến tranh Iran-Iraq trong những năm 1980, những cuộc tấn công liên tục của Iran và Iraq vào tàu bè trong vịnh Péc-xích thường xuyên đến mức vào năm 1987 phía Kuwait phải đề nghị Hoa Kỳ hỗ trợ. Chiến dịch Earnest Will, được vạch ra nhằm duy trì sự thông thương hàng hải tự do trong khu vực biển này, được phát động. Lúc khởi đầu, 11 tàu dầu Kuwait được "treo lại cờ", và Lực lượng Trung Đông sẽ hộ tống những tàu này vượt qua eo biển Hormuz vào vịnh Péc-xích đến Kuwait và ngược lại, khởi sự vào ngày 22 tháng 7 năm 1987.

Trong khi thi hành nhiệm vụ hộ tống tại địa điểm 55 dặm về phía Tây Bắc Qatar vào ngày 14 tháng 4 năm 1988, các trinh sát viên trên chiếc tàu hộ tống trang bị tên lửa điều khiển USS Samuel B. Roberts phát hiện ba trái mìn (thủy lôi) trước mặt. Không lâu sau, chiếc tàu đụng phải trái mìn thứ tư, phát nổ và gây ra một lỗ thủng 21-foot bên mạn trái tàu, làm bị thương mười thủy thủ, và hư hại đáng kể cho thân, boong tàu và cấu trúc hạ tầng. Các nỗ lực kiểm soát hư hại khẩn cấp của thủy thủ đoàn đã cứu được con tàu khỏi bị chìm. Trong vòng mười ngày tiếp theo, những tàu phá mìn thuộc Liên minh đã phát hiện thêm tám mìn, qua khảo sát được cho là có nguồn gốc từ phía Iran.

Chiến dịch Praying Mantis được vạch ra như là một "phản ứng chừng mực" cho sự cố này, cũng như là các hành động quấy rối và khiêu khích tàu thuyền lặp đi lặp lại từ phía Iran; những chiếc A-7E từ các phi đội VA-22 và VA-94, cùng với những máy bay A-6E thuộc Phi đội VA-95 đã tham gia đánh chìm tàu hộ tống Sahand của Iran, vốn đã bắn tên lửa vào hai chiếc A-6E Intruder Hoa Kỳ.

Panama

Liên đội Tiêm kích Chiến thuật 180 thuộc Không lực Vệ binh Quốc gia Ohio đã ở tại Panama khi các hoạt động đối địch xảy ra vào tháng 12 năm 1989 và đã tham gia vàoChiến dịch Just Cause. Họ ở trong số những đơn vị Vệ binh Quốc gia luân phiên đến hoạt động tại Căn cứ Không quân Howard nhằm hiện diện tại Panama trong khuôn khổ cuộc tập trận Cornet Cove.

Chiến dịch Lá chắn Sa Mạc/Bảo táp Sa Mạc

Chiếc A-7E thuộc Phi đội VA-72 đang bay bên trên sa mạc thuộc Ả Rập Xê Út trong Chiến dịch Lá chắn Sa Mạc.

Trong khi Không quân Mỹ giữ lại những chiếc A-7 tại quê nhà vì ưa chuộng chiếc A-10, Hải quân Hoa Kỳ lại bố trí hai trong số những phi đội A-7E cuối cùng của họ hoạt động trong khuôn khổ Chiến dịch Lá chắn Sa Mạc vào tháng 8 năm 1990 trên chiếc tàu sân bay USS John F. Kennedy, chiếc duy nhất trong số sáu tàu sân bay được bố trí trong chiến dịch này sử dụng A-7, ngoạt trừ chiếc USS Saratoga đã đón tiếp một chiếc A-7 thuộc Phi đội VA-72 đáp nhầm khi Kennedy và Saratoga hoán đổi vị trí cho nhau giữa phi vụ. Các phi đội VA-46 và VA-72 thực hiện các phi vụ A-7 chiến đấu cuối cùng trong Chiến dịch Bảo táp Sa Mạc bay từ Biển Đỏ đến các mục tiêu tại Iraq. Chiếc A-7 được sử dụng cả ngày và đêm để tấn công một loạt các mục tiêu sâu bên trong được phòng thủ chắc chắn tại Iraq cũng như các "khu vực hủy diệt" tại Kuwait, sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau bao gồm các đầu đạn dẫn đường chính xác (PGM), như bom lượn điều khiển bằng TV Walleye, bom thông thường không điều khiển, và tên lửa chống bức xạ tốc độ cao (HARM). Chiếc A-7 cũng được sử dụng như máy bay tiếp dầu trong nhiều phi vụ tiếp dầu trên không.

Nghỉ hưu

Chiếc A-7 Corsair II nghỉ hưu trưng bày phía trước Bảo tàng Cựu chiến binh ở Halls, Tennessee.

Những chiếc A-7 Corsair của Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu được rút khỏi phục vụ trong hạm đội từ giữa những năm 1980 khi có sự xuất hiện của chiếc McDonnell Douglas (hiện tại là Boeing) F/A-18 Hornet. Chiếc A-7 Hải quân cuối cùng nghỉ hưu khỏi các phi đội hoạt động cuối cùng trên hạm đội (VA-46 và VA-72) vào tháng 5 năm 1991, không lâu sau khi chúng quay về từ Chiến dịch Bảo táp Sa mạc. Chiếc F-16 Fighting Falcon cũng thay thế phần lớn những chiếc A-7 trong vai trò máy bay chiến đấu tấn công tính năng cao của Không quân. Cho dù với kỹ thuật tiên tiến và động cơ turbo quạt ép có đốt sau, một sứ người cho rằng chiếc F-16 không có được tầm bay xa như của chiếc A-7 cũ kỹ. Sự than phiền về tầm bay xa của chiếc Hornet nhiều đến mức phải thiết kế phiên bản mở rộng F/A-18E/F Super Hornet lớn hơn để có thể mang được nhiều nhiên liệu hơn.

Đến năm 1981, chiếc Fairchild A-10 Thunderbolt II bắt đầu thay thế chiếc A-7 đảm nhiệm vai trò hỗ trợ gần mặt đất (CAS) tại các đơn vị hoạt động của Không quân. Ngoại trừ những chiếc A-7 được sử dụng trong chương trình phát triển F-117, những chiếc Corsair hoạt động cuối cùng được sử dụng bởi Phi đoàn Tiêm kích Chiến thuật 23 tại Căn cứ Không quân England, Louisiana năm 1991. Nhiều phi công đang phục vụ vẫn lưu tuyến tính năng bay và độ tinh vi của chiếc Corsair.

Những chiếc A-7D của Không quân đang hoạt động được chuyển cho các đơn vị của Không lực Vệ binh Quốc gia bắt đầu từ năm 1974, và những chiếc hai chỗ ngồi A-7K chế tạo mới vào năm 1979 được giao trực tiếp cho các đơn vị Vệ binh Quốc gia. Chiếc Corsair cuối cùng của Vệ binh Quốc gia được cho nghỉ hưu vào năm 1993 tại các căn cứ Rickenbacker (Ohio), Des Moines (Iowa), Tulsa (Oklahoma) và Springfield (Ohio). Một số máy bay dư ra được chuyển cho Hy Lạp, Thái LanBồ Đào Nha; đến cuối năm 1998, ngoại trừ một số chiếc đang được trưng bày,[2] tất cả những chiếc A-7 đang được loại bỏ tại Trung tâm AMARC (Aerospace Maintenance and Regeneration Center: Trung tâm Bảo trì và Phục hồi Hàng không).

Một phiên bản nâng cấp động cơ YA-7F đã được đề nghị với tính năng bay gần tốc độ âm thanh với động cơ có đốt sau, nhưng thiết kế này đã bị loại khi cạnh tranh cùng F-16 Fighting FalconF/A-18 Hornet.

Liên quan